Join us for our 2025 Reeve Summit in Denver, Colorado!

Connect

Viêm tủy mềm cấp tính

Viêm tủy mềm cấp tính (AFM) là gì?

Viêm tủy mềm cấp tính (AFM) là một sự khởi phát đột ngột của chứng tê liệt ở tủy sống. Cấp tính có nghĩa là khởi phát nhanh hay mau chóng. Thể mềm là sự giảm hoặc thiếu chuyển động cơ trong đó phần cơ thể bị ảnh hưởng trở nên lả đi hoặc không có trương lực cơ và với các phản xạ giảm dần. Viêm tủy là một sự thay đổi viêm sưng trong myelin, là vỏ bọc hỗ trợ các dây thần kinh. Hậu tố -itis có nghĩa là viêm. AFM ảnh hưởng tới tủy sống khi truyền thông điệp cho cảm giác và chuyển động tới não và từ não trên khắp cơ thể. Điều này khiến cho cảm giác và chuyển động giảm dần.

Myelin là một chất quan trọng bao phủ các tế bào thần kinh. Khi các thông điệp được thực hiện thông qua các dây thần kinh từ não đến cơ thể và từ cơ thể đến não, xung lực thông điệp truyền dọc theo dây thần kinh. Myelin là một chất béo màu trắng giúp lưu giữ thông điệp. Khi myelin không xuất hiện hoặc bị hư hỏng do lý do nào đó, thì xung lực thông điệp không thể được truyền qua một cách chính xác.

Ở tình trạng viêm tủy mềm cấp tính, myelin bị tấn công và phá hủy do lý do không rõ. Lúc đầu, myelin trở nên tổn thương, do đó việc truyền thông điệp sẽ không hiệu quả như mong muốn. Cuối cùng, myelin có thể bị phá hủy và sau đó ảnh hưởng trực tiếp đến dây thần kinh. Các xung lực thần kinh có thể dừng lại. Ở tình trạng viêm tủy mềm cấp tính, sự khởi phát nhanh chóng của tổn thương xảy ra đối với myelin gây gián đoạn các thông điệp từ những dây thần kinh đang cố gửi đi xuyên khắp cơ thể.

Trong tủy sống, các tế bào thần kinh vận động dưới (LMN) (dây thần kinh) trong chất xám tạo ra sự kết nối từ các tế bào thần kinh vận động trên với các cơ xương trong cơ thể. LMN truyền thông điệp giữa não và cơ thể. Đây là cách truyền thông điệp trong hệ thần kinh trung ương. AFM ảnh hưởng đến LMN, dẫn tới kết quả là yếu cơ mềm (khập khiễng), teo cơ (hao mòn), chứng giật cơ (co giật dây thần kinh đơn) và suy nhược thần kinh (phản xạ kém).

AFM được coi là một virus không gây bại liệt. Điều này có nghĩa là kết quả có vẻ giống sự kiện bại liệt, nhưng AFM không phải do virus bại liệt gây ra. Bệnh bại liệt có tính lây lan còn AFM thì không.

Nguyên nhân gây AFM

AFM được cho là do nhiễm virus, độc tố môi trường và/hoặc rối loạn di truyền gây ra.

Nhiễm virus: Enterovirus là virus ảnh hưởng đến đường tiêu hóa (dạ dày và ruột) của cơ thể. Chủng virus đặc biệt này, enterovirus D68 (EV-D68), được xác định vào năm 1962 tại California là một loại virus không gây bại liệt. Virus này rất hiếm cho đến năm 2014, khi báo cáo có 1.395 trường hợp nhiễm loại virus này ở Mỹ và 59 trường hợp ở Nhật Bản. Không rõ lý do vì sao xảy ra sự bùng phát này. Tuy nhiên, một vài trường hợp lẻ tẻ đã xuất hiện kể từ khi dịch này bùng phát.

Các triệu chứng nhẹ của EV-D68 giống như bất kỳ bệnh cúm nào, sổ mũi, hắt hơi, ho và đau cơ. Triệu chứng nặng là thở khò khè và khó thở. Bệnh lây lan qua các giọt không khí hoặc bằng cách chạm vào đồ vật mà ai đó mang EV-D68 đã chạm vào. Bệnh dễ lây lan bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng cao điểm vào mùa xuân và mùa thu. Trẻ em và thanh thiếu niên có nhiều khả năng bị ảnh hưởng bởi virus vì chúng có khả năng miễn dịch kém hơn so với người lớn, nhưng người lớn cũng có thể mắc EV-D68. Hãy rửa tay và che miệng và mũi khi hắt hơi hoặc ho để giảm sự lây lan của loại virus này.

Độc tố môi trường: Các độc tố trong môi trường xung quanh chúng ta có liên quan đến AFM. Độc tố do rắn cắn cũng được ghi nhận là một nguồn độc tố bất thường.

Rối loạn di truyền: Các bệnh duy trì thông qua di truyền gia đình có liên quan đến AFM. Ví dụ như Tê Liệt Định Kỳ Do Hạ Kali Máu Di Truyền (kali thấp) là một bệnh lý thần kinh tự phát hiếm gặp (một gen bất thường từ bố hoặc mẹ) bao gồm những đợt tấn công của thể liệt mềm với kali thấp thường xuyên.

Người ta đã cho rằng AFM là một biến thể của các bệnh như Viêm Tủy Ngang Cấp (TM) hoặc Hội Chứng Guillain Barré (GBS). Viêm nhiễm nội tạng có thể là nguồn gây tổn hại đến myelin. Có những quan điểm khác thì cho rằng nguyên nhân có thể là chấn thương hoặc bệnh từ cơ bắp.

Triệu chứng của AFM

Các triệu chứng của AFM là hệ lụy từ các tác động lên các tế bào thần kinh vận động dưới trong tủy sống.

  • Đột ngột khởi phát tay hoặc chân yếu đi và mất trương lực cơ và phản xạ
  • Khó đảo mắt hoặc hạ mí mắt
  • Liệt mặt hoặc yếu cơ ở một hoặc cả hai bên mặt
  • Khó khăn khi nuốt hoặc nói lắp
  • Không thể đi tiểu
  • Một số người thấy đau
  • Suy hô hấp (nếu cơ hô hấp bị ảnh hưởng)

Tương tự với tất cả các bệnh về tủy sống, chỉ có các dây thần kinh bị ảnh hưởng dẫn đến các triệu chứng. Do đó, một người có thể mắc tất cả, một vài hoặc kết hợp một vài triệu chứng kể trên. Các trường hợp mắc AFM của mọi người có thể hoàn toàn khác biệt với nhau.

Chẩn đoán viêm tủy mềm cấp tính

Chẩn đoán AFM có thể phức tạp do các triệu chứng tương tự các bệnh khác như Guillain BarréViêm Tủy Ngang. Không có loại xét nghiệm nào xác định được bệnh mà chỉ có bệnh sử và hình ảnh lâm sàng được sử dụng để chẩn đoán khi những bệnh khác đã được loại trừ.

Để bắt đầu quá trình chẩn đoán, bác sĩ sẽ tiến hành kiểm tra thể chất và thần kinh hoàn chỉnh. Kiểm tra này sẽ bao gồm đánh giá tất cả các nhóm cơ, khớp, cảm giác và phản xạ. Cơ bắp được kiểm tra bằng cách yêu cầu cá nhân chuyển động các bộ phận cơ thể khi có trọng lực và giảm trọng lực và không có trọng lực.

Cảm giác được thử nghiệm với tăm bông và đầu kim để biết cảm giác thô và cảm giác tinh. Phản xạ được đánh giá bằng cách tác động một lực mạnh và nhanh hoặc gõ bằng búa phản xạ vào các khu vực của cơ thể nơi gân bám vào xương. Phản ứng điển hình của các phản xạ khi mắc AFM bị giảm hoặc rất ít.

Các nghiên cứu hình ảnh bao gồm MRI nhằm đánh giá não và tủy sống trong cơ thể. Các dấu hiệu sưng hoặc mất sắc tố có thể được ghi nhận khi mắc AFM.

Việc chọc dò thắt lưng để loại bỏ một lượng nhỏ dịch não tủy được thực hiện vô trùng bằng cách đưa kim vào khoảng trống giữa khoảng đốt sống thắt lưng thứ tư và thứ năm ở lưng. Một lượng nhỏ chất dịch được lấy ra và gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích nhằm phát hiện coxsackievirus A16, EV-A71 và EV-D68 và các độ cân bằng bất thường khác trong dịch não tủy. Điều này cũng quan trọng trong việc loại trừ các bệnh thần kinh khác.

Xét nghiệm dẫn truyền thần kinh được hoàn thành để ghi lại thời gian truyền xung thông điệp theo các dây thần kinh được chọn. Độ trễ thời gian có thể cho biết AFM.

Điều trị viêm tủy mềm cấp tính

Không có phác đồ điều trị chính thức nào đối với AFM. Thay vào đó, điều trị dựa trên các triệu chứng của mỗi người theo từng trường hợp.

Các phương pháp điều trị y tế khác nhau bao gồm steroid vỏ não, tách huyết tương, immunoglobulin tiêm tĩnh mạch, fluoxetine, thuốc kháng virus, các thuốc interferon và ức chế miễn dịch khác được thử để điều trị AFM nhưng chưa có bằng chứng cho thấy thành công. Tuy nhiên, những phương pháp điều trị này có thể được thử tùy từng tình huống.

Hô hấp

AFM có thể ảnh hưởng đến hô hấp nếu bất kỳ phần nào của hệ hô hấp bị ảnh hưởng. Việc cung cấp hỗ trợ hô hấp khi cần thiết là rất quan trọng.

Hô hấp là một quá trình cần thiết trong đó cơ hoành, cơ bụng và cơ liên sườn (cơ nhỏ giữa các xương sườn) phối hợp với nhau để lấy không khí từ môi trường vào phổi. Các phế vị thần kinh hoạt động cật lực để hạ cơ hoành xuống sau đó khiến phổi hạ xuống trong cơ thể để không khí được thu vào đây. Các cơ bụng hỗ trợ hạ phổi xuống. Các cơ liên sườn kéo xương sườn nhô ra ở phần ngực để hỗ trợ.

Khi ba nhóm cơ thư giãn, sức căng trong phổi giảm đi và không khí tự nhiên đẩy ra ngoài chứ không phải bị ép ra ngoài. Điều này chính là điểm khác biệt quan trọng khi cần thông khí cơ học. Khi hít vào, không khí được tích cực hút vào phổi bởi ba bộ cơ hoạt động nhưng khi thở ra, không khí thoát ra ngoài do sự thư giãn của phổi, không phải do cơ đẩy ra một cách chủ động. Trong hô hấp, không khí bị ép hoặc lấy vào khi phổi căng và giãn nở về mặt vật lý nhưng không khí bị đẩy ra ngoài khi phổi thư giãn và trở về hình dạng và kích thước tự nhiên.

Cả ba nhóm cơ đều có nhiệm vụ phải làm. Cơ hoành cần thiết cho hô hấp. Đôi khi, cơ bụng hoặc cơ liên sườn không hỗ trợ tốt đúng với chức năng của chúng. Riêng rẽ từng bộ phận có thể thích ứng với điều này nhưng thông thường, cả ba nhóm cơ đều phải làm việc cùng nhau để hô hấp tốt.

Tùy thuộc vào tình huống cá nhân, có những phương pháp điều trị có thể giúp cá nhân hô hấp. Thông Khí Không Xâm Lấn (NIV) được sử dụng cho rối loạn chức năng hô hấp cấp tính (ARD) hoặc suy hô hấp cấp tính (ARF) nhưng cũng có thể được sử dụng trong hô hấp dài lâu.

Một số ví dụ về NIV bao gồm: nếu một người không nạp đủ oxy khi không mắc vấn đề về cấu trúc trong cơ thể, thì oxy có thể được cung cấp qua ống qua mũi. Điều này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng ống thông mũi lưu lượng thấp hoặc lưu lượng cao. Ống thông mũi là ống hai đầu đưa lượng oxy vừa đủ vào mũi. Khi sử dụng kỹ thuật này, trong phần lớn thời gian thì miệng có thể khép lại để đạt được hiệu quả tối đa từ oxy.

Thở Áp Lực Dương Liên Tục (CPAP) là một thiết bị thở bên ngoài cho NIV mà vừa với mũi và đôi khi là cả miệng. Có một số phiên bản của phương pháp điều trị này bao gồm Thở Áp Lực Dương Liên Tục qua mũi (nCPAP) và Thở Áp Lực Dương Liên Tục Tạo Bong Bóng (BCPAP). Mỗi loại có sự khác biệt nhưng nhìn chung loại nào cũng đều nhẹ nhàng thổi vào không khí ngưng tụ để giữ cho mũi, đường thở và phổi mở.

Các loại NIV khác có thể bao gồm Thở Áp Lực Dương Ngắt Quãng Qua Mũi (NIPPV) khi sử dụng máy thở để cung cấp hơi thở ngắt quãng ở áp suất hô hấp đầy đủ thông qua mũi. Áp Lực Đường Thở Hai Mức Dương (BiPAP) sử dụng áp lực thấp hơn, hít vào và thở ra dài hơn (thỉnh thoảng thở sâu hơn). Những máy này đi theo một kiểu thở điển hình là hít không khí sau đó nghỉ ngơi để thải không khí chứa carbon dioxide ra ngoài.

Thông Khí Cơ Học (MV) là khi một ống được đặt trong miệng hoặc cổ họng để điều hòa nhịp thở. Điều này được coi là xâm lấn vì ống thở được đặt bên trong cơ thể. Cần thực hiện một phẫu thuật mở khí quản hoặc một vết mổ phẫu thuật ở phía trước cổ để giúp cho nỗ lực thở dễ dàng hơn khi phải thông khí lâu dài.

Phục hồi chức năng cho viêm tủy mềm cấp tính

Phục hồi khỏi AFM là một quá trình. Cho tới nay, vẫn chưa có điều trị chữa bệnh. Phục hồi dựa trên điều trị triệu chứng. Một bác sĩ chuyên về vật lý trị liệu và phục hồi chức năng (được gọi là bác sĩ vật lý trị liệu), bác sĩ thần kinh, bác sĩ nhi khoa hoặc sự kết hợp từ các chuyên gia sẽ điều phối các nhu cầu y tế. Một bác sĩ tiết niệu cũng có thể cần được tham vấn để kiểm soát bàng quang. Có thể có sự kết hợp của các chuyên gia, những người sẽ làm việc cùng nhau để phối hợp chăm sóc.

Phục hồi chức năng sẽ bao gồm liệu pháp vật lý trị liệu và vận động để cung cấp đầu vào cho những dây thần kinh và cơ bắp đang không khỏe mạnh. Liệu pháp vật lý trị liệu nhắm tới nỗ lực của họ đối với chuyển động thô như ngồi, đứng và đi. Liệu pháp vận động tập trung vào chuyển động tinh của bàn tay và ngón tay, cũng như các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, mặc quần áo, tắm rửa và ăn uống. Tránh các biến chứng phát triển cũng nằm trong kế hoạch của những liệu pháp. Người ta tiến hành trị liệu khi cá nhân cải thiện. Liệu pháp hô hấp sẽ hỗ trợ nhu cầu thông khí (cả không xâm lấn và thở máy). Họ có thể cung cấp hướng dẫn để tăng thông khí cũng như từ bỏ dần khi không còn cần thiết.

Sẽ có cả trị liệu âm ngữ khi có thiếu hụt vận động cơ miệng. Điều này sẽ giúp kiểm soát việc nuốt và tránh hít hoặc nuốt chất lỏng và thức ăn vào phổi. Chuyên Gia Bệnh Học về Âm Ngữ và Ngôn Ngữ sẽ hỗ trợ nói khi cần thiết.

Y tá chuyên môn sẽ thực hiện các khuyến nghị của nhà trị liệu trong suốt cả ngày. Họ sẽ lên kế hoạch kiểm soát bàng quang, ruột và chăm sóc da cũng như giúp di chuyển về nhà.

Người quản lý trường hợp của bệnh viện sẽ liên hệ với người quản lý trường hợp bảo hiểm của bạn để phối hợp chăm sóc cần thiết. Khi về nhà, bạn sẽ làm việc trực tiếp với người quản lý trường hợp bảo hiểm.

Tất cả các chuyên gia này sẽ làm việc cùng nhau để phối hợp chăm sóc cần thiết và khuyến khích phục hồi. Một vài người bệnh sẽ có phục hồi, cũng có người không thấy nhiều cải thiện. Không có điều gì chỉ ra mức độ phục hồi của mọi người.

Phòng ngừa viêm tủy cấp tính

Do không rõ nguyên nhân của AFM cho nên các biện pháp phòng ngừa căn bệnh này cũng không rõ ràng. Mọi người cần tuân theo một số kỹ thuật phòng ngừa chung là điều quan trọng để tránh được nhiều bệnh. Bao gồm:

  • Rửa tay thường xuyên bằng nước ấm và xà phòng, có chà sát
  • Che miệng và mũi của bạn khi hắt hơi hoặc ho bằng cách che bằng khuỷu tay
  • Ở nhà khi ốm cũng như tránh xa người bị bệnh.
  • Tránh chạm vào mặt, mắt, mũi hoặc miệng bằng tay
  • Rửa tay nắm cửa, đồ chơi và bề mặt trong nhà và xe hơi của bạn
  • Tuân theo lịch tiêm chủng

Nghiên cứu

Các nguyên nhân và phương pháp điều trị cho AFM đang được tích cực nghiên cứu. AFM đã được chẩn đoán trong vài năm nhưng đối với các trường hợp cực kỳ hiếm. Kể từ năm 2014, số lượng các trường hợp tăng lên nhanh chóng. Do căn bệnh này quá mới, các nhà khoa học đang tập trung vào việc phân lập nguyên nhân. Nhiều nghiên cứu đang được tiến hành để tìm hiểu thêm về nguyên nhân (nguồn gốc) của tình trạng này. Một khi phát hiện được, thì phương pháp điều trị sẽ được phát triển hoặc sử dụng từ các bệnh liên quan tương tự.

Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh đang xem xét các trường hợp có thể xảy ra từ quá khứ để tạo kết nối. Họ có một chiến dịch để các chuyên gia chăm sóc sức khỏe phải báo cáo trường hợp mắc mới để xem xét bằng cách liên hệ với CDC tại [email protected]

Một nghiên cứu lâm sàng đang được tiến hành để thu thập thông tin về AFM ở những người trong độ tuổi 0-18. Nghiên cứu có tiêu đề CAPTURE: Đánh Giá Tổng Hợp Viêm Tủy Ngang Cấp Ở Trẻ Em; Hiểu, Công Bố, Giáo Dục. Bạn có thể gửi thông tin ở đây.

Thư Viện Y Khoa Quốc Gia Hoa Kỳ tổ chức một địa điểm công cộng để nghiên cứu bất kỳ chẩn đoán y tế nào có tài trợ từ chính phủ Hoa Kỳ. Bạn có thể tình nguyện tham gia các nghiên cứu nhưng cũng cần đọc về kết quả của các nghiên cứu được tài trợ. Đăng nhập vào clinicaltrials.gov và tìm kiếm danh mục chẩn đoán quan tâm (viêm tủy mềm cấp tính).

Các nghiên cứu đang thực hiện để cải thiện kết quả mắc chứng tê liệt đang được tiến hành trong nhiều lĩnh vực được chú trọng. Các nghiên cứu liên quan đến các điều kiện thứ cấp đối với bàng quang, ruột và chăm sóc da.

Đã có những nỗ lực được thực hiện để phát triển các hướng dẫn quốc gia về thông khí nhi khoa. Nhiều chuyên gia nhi khoa đã xây dựng kế hoạch điều trị hiệu quả cho riêng họ, tuy nhiên, sự đồng thuận trên cả nước rất khó khăn vì có khá ít bệnh nhi cần thở máy lâu dài, nhiều lứa tuổi, sự khác biệt trong phát triển cơ thể và phát triển tinh thần và một loạt các chẩn đoán. Điều này khiến cho việc tìm kiếm những nhóm tương đồng trở thành một thách thức đối với việc phát triển phác đồ do số người bệnh không nhiều để xét nghiệm phạm vi rộng.

Dữ kiện và số liệu

  • Chưa đến 1-2 trẻ em trong số một triệu trẻ sẽ bị ảnh hưởng bởi AFM. AFM đã đạt đỉnh ở Mỹ sau mỗi hai năm kể từ năm 2014.
  • Hàng nghìn người nhiễm virus mỗi năm. Chưa rõ lý do tại sao một số người mắc phải AFM.
  • 90% người mắc phải AFM bị nhiễm trùng đường hô hấp trước tiên.
  • Hơn 90% trường hợp mắc AFM là ở trẻ em.
  • AFM không phải do virus bại liệt gây ra.

Nguồn lực

Nếu bạn đang tìm hiểu thêm thông tin về viêm tủy mềm cấp tính hoặc có thắc mắc cụ thể, thì bạn có thể liên hệ với các Chuyên Gia Thông Tin của chúng tôi, làm việc các ngày trong tuần từ thứ Hai đến thứ Sáu, gọi miễn phí theo số 800-539-7309 từ 7 giờ sáng đến 12 giờ đêm theo giờ miền Đông (ET).